Chúng tôi sẽ giải nghĩa tiên tri Bảy tiếng kèn trong Sách Khải Huyền bắt đầu từ sứ đồ Giăng cho đến lần tái lâm của Đấng Christ. Nhiều người giải nghĩa tiên tri bảy tiếng kèn sẽ diễn ra vào thời kỳ cuối cùng. Nhưng có một vấn đề với cách giải thích đó ở ngay trong câu đầu tiên của sách Khải Huyền.
“Sự mặc-thị của Đức Chúa Jêsus-Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi-tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên-sứ đến tỏ những điều đó cho Giăng, tôi-tớ Ngài” – Khải huyền 1:1
Các lời tiên tri trong Khải Huyền là “chẳng bao lâu nữa sẽ xảy ra”. Vì vậy, các sự kiện đã bắt đầu ngay sau thời của sứ đồ Giăng. Và chúng ta biết rằng Khải Huyền đưa chúng ta đến lần đến thứ hai của Đấng Christ. Điều này có nghĩa là những chiếc kèn, giống như bảy cái ấn và bảy nhà thờ, kéo dài hàng ngàn năm, cho chúng ta biết lịch sử của thế giới từ thời Giăng cho đến lần tái lâm của Đấng Christ.
7 tiếng kèn là gì?
Tiếng kèn tượng trưng cho sự chiến tranh (Giê-rê-mi 4:19). Khi dân Y-sơ-ra-ên hành quân quanh Giê-ri-cô, họ đã thổi kèn trước khi tường thành sụp đổ. Vì vậy, rõ ràng kèn là lời cảnh báo về chiến tranh và tai họa sắp xảy ra. Chúa sẽ chiến tranh với đế chế La Mã, Giáo hội Công Giáo La Mã nơi mà các Cơ Đốc Nhân bị bức tử rất nhiều.Họ chống đối Chúa một cách công khai.
Sứ đồ Giăng đã sống trong Đế chế La Mã. Và trong Khải Huyền 8:5, chúng ta được biết rằng một thiên sứ lấy lư hương của mình, đổ đầy lửa từ bàn thờ vào và ném xuống đất, nơi phát sinh ‘những tiếng nói, sấm sét, chớp nhoáng và động đất’. Đây là ngôn ngữ của sự phán xét, và sau đó là tiếng thổi của bảy chiếc kèn. Giờ đây, La Mã là đế quốc (theo yêu cầu của người Do Thái) đã đóng đinh Chúa và Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, đồng thời bắt bớ các thánh đồ của Đức Chúa Trời, dưới cả hình thức Pagan VÀ Giáo hoàng. Vì vậy, bảy tiếng kèn là lời cảnh báo về chiến tranh và sự phán xét của Đức Chúa Trời chống lại Đế quốc La Mã sắp diễn ra ngay sau khi Giăng qua đời.
7 tiếng kèn | Các sự kiện | Năm | |
1 | Cuộc tấn công của người Visigoth chống lại Rome dưới sự chỉ đạo của Alaric. |
401-410 |
Trừng phạt La Mã
|
2 | Cuộc tấn công của những kẻ phá hoại chống lại Rome. | 429-455 | |
3 | Cuộc tấn công của người Hung vào thành Rome. | 443-452 | |
4 | Sự sụp đổ của Tây Rome. | ||
5 | Sự trỗi dậy của Hồi giáo. (Kỳ hạn 5 tháng; 1299 + 150 = 1449.) | 1299-1449 |
Trừng phạt Công Giáo
|
6 | Đế chế Ottoman. (1 ngày, 1 tháng, 1 năm = 391 năm; 1449–1840.) | 1449-1840 | |
7 | Bí ẩn của Thiên Chúa đã kết thúc. |
- Tiếng kèn thứ nhất- Tiếng kèn thứ tư: Chúa trừng phạt đế chế La Mã.
- Tiếng kèn thứ năm – Tiếng kèn thứ sáu: Chúa dùng Hồi Giáo trừng phạt Công Giáo.
- Tiếng kèn thứ bảy: Sự phán xét của Chúa.
Tiếng kèn thứ nhất
“Vị thứ nhứt thổi loa, thì có mưa đá và lửa pha với huyết bị quăng xuống đất. Một phần ba đất bị cháy, một phần ba loài cây bị cháy, và mọi giống cỏ xanh đều bị cháy.” Khải Huyền 8:7
Tiếng kèn đầu tiên này mô tả cuộc chiến với người Visigoth , dưới sự lãnh đạo của Alaric, người được mệnh danh là “tai họa của Chúa”. Vào năm 395 sau Công Nguyên, trước khi mùa đông kết thúc, người Goth, dưới sự chỉ huy của Alaric( Wikipedia) đã vũ trang chống lại Tây La Mã.
- Mưa đá – tượng trưng cho nơi mà những kẻ xâm lược đến từ – phương bắc băng giá.
- Lửa – tượng trưng cho sự tàn phá bằng lửa đối với cả đất đai và nhà ở dưới bàn tay của người Visigoth.
- Máu – tượng trưng cho cuộc tàn sát khủng khiếp của người Goth, dưới thời Alaric.
Những ẩn dụ tiên tri rất thích hợp để đại diện cho những kẻ xâm lược Visigoth từ phía bắc tới Tây Rome.
Đế chế La Mã, sau Constantine, được chia thành ba phần; và do đó người ta thường xuyên nhận xét “một phần ba nhân loại”, v.v., ám chỉ phần thứ ba của đế quốc đang bị tai họa. Sự phân chia này của vương quốc La Mã được lập sau cái chết của Constantine, giữa ba người con trai của ông, Constantius , Constantine II và Constans .
- Constantius chiếm hữu phương Đông và cố định nơi cư trú của mình tại Constantinople, thủ đô của đế quốc
- Constantine II nắm giữ Anh, Gaul và Tây Ban Nha
- Constans nắm giữ Illyricum, Châu Phi và Ý.
Tiếng kèn thứ hai
“Vị thiên-sứ thứ nhì thổi loa; bèn có một khối tựa như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến ra huyết, một phần ba sinh-vật trong biển chết hết, và một phần ba tàu-bè cũng bị hủy hết.” Khải Huyền 8:8-9
Tiếng kèn thứ hai sau đó phải chỉ ra các cuộc chinh phục của NAVAL của Genseric, chống lại phần châu Phi của Đế chế La Mã, và sau đó là các cuộc chinh phục chống lại Ý, trái ngược với các cuộc chinh phục đất đai của Alaric trong chiếc kèn đầu tiên. Không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc kèn này ám chỉ một cuộc chiến tranh hàng hải khốc liệt, sẽ diễn ra sau các cuộc tấn công của Alaric và những người Goth của hắn trong chiếc kèn đầu tiên. Cuộc xâm lược vĩ đại tiếp theo vào Đế chế La Mã phương Tây là cuộc xâm lược của ‘Genseric khủng khiếp’ đứng đầu những kẻ phá hoại. Sự nghiệp của ông được đánh dấu vào những năm 428-468 sau Công nguyên
Tiên tri | Giải nghĩa |
hòn núi lớn toàn bằng lửa | Vì quân đội Valdal chiếm từ Châu Phi nóng lực (ngược với Phía bắc là mưa đá). Buộc Tây La Mã phải coi Genseric là vua của vùng Bắc Phi. – Wiki |
ném xuống biển | Genseric không thể trèo lên một con ngựa vì một cú ngã mà ông đã bị khi còn là một thanh niên trẻ, vì thế ông làm thỏa mãn mong muốn vinh quang quân sự của mình bằng biển cả.- Wiki |
1/3 biển biến ra huyết | Genseric hầu như chỉ tấn công trên biển nên thương vong chủ yếu ở trên biển -Wiki |
1/3 | Quân đội Valdal đánh được 1/3 La Mã Constans (llyricum, Châu Phi và Ý) |
1/3 tàu bè bị phá huỷ |
Genseric đã đánh bại hạm đội gồm 1.100 tàu của La Mã. Wiki
|
Tiếng kèn thứ ba
“Vị thiên-sứ thứ ba thổi loa, thì một ngôi sao lớn ở trên trời rơi xuống, cháy có ngọn như một bó đuốc; ngôi sao ấy rơi vào một phần ba các sông lớn và các suối nước. Tên ngôi sao đó là Ngải-cứu, một phần ba nước biến ra như mùi ngải-cứu, và làm chết mất nhiều người ta, vì đã biến thành ra đắng.” Khải-huyền 8:10-11
Tiên tri | Giải nghĩa | |
1 | ngôi sao lớn ở trên trời rơi xuống, | Attila của người của Đế quốc Hung đã nhanh chóng đánh thắng La Mã. nhưng cũng nhanh chóng thất bại. Ngoại hình phi phàm bất thường của Attila cũng được ví như ngôi sao băng vậy – Wiki |
2 | rơi vào một phần ba các sông lớn | Attila nghĩa là “Lũ trôi xa” .Attila đã tạo dựng một đế chế của người Hung trải dài từ Đức đến sông Ural, rồi từ sông Danube tới biển Baltic – Wiki |
3 | Tên ngôi sao đó là Ngải-cứu | Nỗi kinh hoàng mà Attila đã gieo vào đế chế La Mã |
4 | một phần ba nước biến ra như mùi ngải-cứu | Dân La Mã ở các vùng sông nước gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. |
5 | chết mất nhiều người ta | Thậm chí Attila đặt biệt hiệu là “Ngọn roi của Thượng đế” hoặc “tai họa của trời” |
Tiếng kèn thứ 3 đã làm suy tàn đế chế La Mã. Chế độ La Mã đã bức hại vô số các Cơ Đốc Nhân. |
Tiếng kèn thứ 4
“Vị thiên-sứ thứ tư thổi loa, thì một phần ba mặt trời bị hại, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao cũng vậy, hầu cho một phần ba các vì sáng ấy đều bị tối-tăm, và hầu cho ban ngày mất một phần ba sáng, và ban đêm cũng vậy.”
Tiên tri | Giải nghĩa |
1/3 mặt trời bị hại | Mặt trời biểu trưng cho Hoàng đế La Mã bị sụp đổ |
1/3 mặt trăng bị hại | Thượng nghị sĩ của nó cũng mất chức |
1/3 các ngôi sao bị hại | Tuy nhiên ngôi sao cấp dưới của nó vẫn tỏa sáng mờ nhạt trong khi viện nguyên lão và các quan chấp chính vẫn tiếp tục hoạt động |
Tiếng kèn thứ 4 thì không có kẻ thủ tấn công mà chính đế chế La Mã tự tan dã |
Tiếng kèn thứ 5
“Vị thiên-sứ thứ năm thổi loa, thì tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và được ban cho chìa-khóa của vực sâu không đáy, Ngôi sao ấy mở vực sâu không đáy ra, có một luồng khói dưới vực bay lên, như khói của lò lửa lớn; mặt trời và không-khí đều bị tối-tăm bởi luồng khói của vực. 3Từ luồng khói ấy, có những châu-chấu bay ra rải trên mặt đất; và có kẻ ban cho chúng nó quyền giống như bọ-cạp ở đất vậy. Có lời truyền cho chúng nó chớ làm hại loài cỏ ở đất, thứ xanh và cây-cối nào, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn Đức Chúa Trời ở trên trán. Lại cho chúng nó phép, không phải là giết, nhưng là làm khổ những người đó trong năm tháng, và sự làm khổ ấy giống như sự làm khổ khi bọ-cạp cắn người ta. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm sự chết, mà không tìm được; họ sẽ ước-ao chết đi mà sự chết tránh xa.Những châu-chấu đó giống như những ngựa sắm sẵn để đem ra chiến-trận: Trên đầu nó có như mão triều-thiên tợ-hồ bằng vàng, và mặt nó như mặt người ta; nó có tóc giống tóc đàn-bà, và răng nó như răng sư-tử. 9Nó có giáp như giáp bằng sắt, và tiếng cánh nó như tiếng của nhiều xe có nhiều ngựa kéo chạy ra nơi chiến-trường. Đuôi nó có nọc, như bọ-cạp, ấy bởi trong những đuôi đó mà chúng nó có quyền hại người ta trong năm tháng. Nó có vua đứng đầu, là sứ-giả của vực sâu, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-ba-đôn, tiếng Gờ-réc là A-bô-ly-ôn.Nạn thứ nhứt đã qua; nay còn hai nạn nữa đến sau nó.”
1
|
ngôi sao từ trời rơi xuống đất
|
Vua Chosroes của Ba tư đánh La Mã chỉ trong vài năm,ngôi sao xuất hiện cũng nhanh và kết thúc nhanh chóng |
Vua Chosroes chiếm được cả châu Phi, Châu Á, và một phần châu Âu | ||
2
|
chìa-khóa của vực sâu không đáy
|
Ba Tư và La Mã đánh nhau cuối cùng quân đội của Mohamet được hường lợi có thể được coi là sự mở ra cái hố không đáy |
Mohammed rời khỏi đất nước vô danh của họ và truyền bá những học thuyết mê lầm của họ bằng lửa và kiếm, cho đến khi chúng lan rộng bóng tối ra khắp đế quốc phương Đông. | ||
3
|
luồng khói dưới vực bay lên
|
Tượng trưng cho sự lan truyền của đạo Hồi |
Hồi giáo phá triển từ vùng Sa mạc trống không. | ||
4 | mặt trời và không-khí đều bị tối-tăm bởi luồng khói của vực | Hồi giáo lan truyền toàn thể giới hiến cho các tôn giáo khác bị lu mờ |
5
|
châu-chấu bay ra rải trên mặt đất
|
Đạo Hồi ban đầu không có Vua |
Đạo Hồi chiếm cả Châu Á, châu Phi và một phần Châu Âu | ||
6 | quyền giống như bọ-cạp | Hồi Giáo tấn công La Mã nhiều lần nhưng không tiêu diệt hoàn toàn giống như vết chích đau âm ỉ của con bọ cạp vậy |
7 | chớ làm hại loài cỏ ở đất, thứ xanh và cây-cối nào | Dân của Chúa được bảo vệ khỏi người Ả – Rập |
chỉ làm hại những người không có ấn Đức Chúa Trời | Hồi giáo chủ yếu tấn công vào La Mã cụ thể là Giáo Hội Công Giáo | |
8 | làm khổ những người đó trong năm tháng | 150 năm Hồi Giáo tấn công La Mã nhưng chỉ gây thương tích, không tiêu diệt hoàn toàn |
9
|
ước-ao chết đi mà sự chết tránh xa.
|
Người Saracens liên tục tấn công La Mã |
Hồi giáo tấn công La Mã gây nhiều thương vong, mệt mỏi nhưng chẳng thể tiêu diệt hoàn toàn giống như vết trích của con bọ cạp đau buốt và buồn nôn nhưng lại không thắng | ||
10 | mão triều-thiên tợ-hồ bằng vàng | Những chiếc khăn xếp của người Saracens, giống như một chiếc vương miện |
11 | mặt nó như mặt người ta | Khuôn mặt chiến binh Ả Rập được thể hiện rõ ràng qua phong thái nam tính bề ngoài |
12 | tóc giống tóc đàn-bà | Người Ả Rập có mái tóc giống như tóc của phụ nữ |
13 | răng nó như răng sư-tử | Chiển binh Ả Rập vô cùnghung dữ và sức mạnh để nuốt chửng |
14 | giáp như giáp bằng sắt | Cuirass tấm giáp sắt trước ngực được người Ả Rập sử dụng vào thời của Mohammed |
15 | tiếng cánh nó như tiếng của nhiều xe | Quân Ả Rập gồm toàn kị binh và cung thủ, chỉ một cái chạm tay,Những con ngựa Ả Rập phóng đi với tốc độ nhanh như gió. |
16
|
Đuôi nó có nọc bọ cạp
|
Sau lưng quân đội Hồi giáo có những mũi tên và những cái lao |
Hồi giáo trước thì đánh dân sự sau còn tuyên truyền giáo lý sai trái | ||
17 | Nó có vua đứng đầu, là sứ-giả của vực sâu | Thế kỉ 13,Chính phủ Ottoman lên lãnh đạo hồi giáo |
18 | Nạn thứ nhất | Khổ nạn vì bây giờ Chúa mới trừng phạt Giáo Hội Công Giáo |
Tiếng kèn thứ 6
9.14 | bốn vị thiên-sứ bị trói | Đây là bốn vương quốc chính mà đế chế Ottoman được thành lập |
9.15 | giờ, ngày, tháng, và năm | 391 và 15 ngày Ottoman tấn công Tây La Mã. |
9.17b | mặc giáp màu lửa, màu tía, màu lưu-hoàng; đầu ngựa giống như đầu sư-tử, và miệng nó có phun lửa, khói, và diêm-sinh | Quân đội Ả Rập phát minh ra thuốc súng gồm ‘hỗn hợp của muối tiêu, lưu huỳnh và than củi. Nhìn từ phía xa thì có màu đỏ màu tía, màu xanh ngọc, màu vàng lưu huỳnh. |
9.17 | đầu ngựa như đầu sư tử | Thể hiện sự tàn bạo của Hồi Giáo Ottoman |
9.18 | Một phần ba loài người bị giết | Bức tường thành cuối cùng của La Mã cũng bị Thổ Nhĩnh Kì đánh bại |
Tiếng kèn thứ 7
Tiên tri | Giải nghĩa | |
11.14 | tai họa thứ ba đang đến rất nhanh | Tai hoạ thứ hai kết thúc năm 1840 thì tai hoạ thứ ba vào năm 1844 |
11.18
|
Các quốc gia đã nổi giận | Các cuộc chiến tranh thế giới liên tục diễn ra |
Và cơn thịnh nộ của Ngài đã đến | Chúa đã dành bảy bát thạnh nộ cuối cùng cho nhân loại | |
giờ phán-xét kẻ chết | Chúa Giê-su đang ngồi ở Nơi Chí Thánh để phán xét họ | |
Phần thưởng của người công bình | Chúa sẽ nhanh chóng phán xét xong vào ban thưởng cho người công bình | |
hủy-phá những kẻ đã hủy-phá thế-gian | Những kẻ ác sẽ bị chết | |
11.19
|
hòm giao-ước bày ra trong đền-thờ Ngài | Các điều răn của Chúa được khôi phục lại |
chớp nhoáng, tiếng, sấm-sét, động-đất và mưa đá lớn. | Cơn co giật cuối cùng của trái đât trước khi vạn vật được đổi mới vào cuối một nghìn năm |